(…
tiếp phần 3)
11, hội pháo đất (làng Cốc – Hải Phòng)
Mới đây về thăm đình làng Cốc xã
Hùng Tiến (huyện Vĩnh Bảo), du khách không chỉ được chiêm ngưỡng một di tích
lịch sử linh thiêng mà còn được hòa mình vào lễ hội pháo đất đậm chất dân gian.
Các bậc cao niên trong làng cũng
không nhớ trò chơi này có từ bao giờ. Chỉ biết, từ rất lâu, pháo đất đã là một
món ăn tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ, Tết. Lũ trẻ trâu nơi đây bên
cạnh những trò chơi phổ biến như ô ăn quan hay đánh đáo, đánh bi, cũng tập tành
đánh pháo. Hằng năm, từ tháng 8 đến tháng 10 là khoảng thời gian của “hội pháo
đất”. Có tiếng vỗ đất, tiếng gieo pháo bồm bộp và có cả những đêm dài không
ngủ.
Cuối tháng 11 vừa qua, tại lễ
khánh thành đình làng Cốc, hội thi pháo đất được tổ chức với sự tham gia của 6
đội. Mỗi đội gồm 10 pháo thủ chính thức và 6 pháo thủ dự bị. Theo ông Nguyễn
Đắc Tảo- đại diện ban giám khảo, các đội chia làm 3 bảng và đấu loại trực tiếp.
Mỗi trận là một hội và gồm 8 tơn, 3 gieo, 3 đập. Đội nào về trước 4 tơn coi như
thắng một cuộc và về trước 8 tơn là thắng cả hội. Cách thức tính điểm bằng que
đo. Que có chiều dài 2m, phần ăn là 88 phân. Vượt ra khỏi “phần ăn” này, các
đội sẽ đựơc trọng tài tính điểm. Sau khi chuẩn pháo, các pháo thủ sẽ thực hiện
kỹ thuật xuống pháo. “Nghệ thuật” là ở chỗ, xuống pháo làm sao lân mông ( phần
bên trong) và lân đượn (vành ngoài) càng lăng xa nhau càng tốt và đượn phải
thẳng.
“Nguyên liệu” chính là đất. Đất
đánh pháo quan trọng là giữ nước tốt. Bác Nguyễn Đình Dũng- một người chơi pháo
lâu năm cho biết: Để đất duy trì độ dẻo và không bị khô trong suốt quá trình
đánh, các pháo thủ trước hết phải tìm loại đất thịt dẻo, sau đó “tước” cho
không còn xơ, lấy muối và lá khoai giã nhuyễn để trộn với đất. Muối giúp giữ
nước còn lá khoai tăng độ dẻo, độ đanh cho đất. Kỹ thuật bấm mẫu phải thật đều
tay. Ngoài ra, các pháo thủ còn phải có tinh thần thi đấu tốt và thể lực dẻo
dai.
Bác Dũng vui vẻ chia sẻ: “Số năm
chơi pháo có lẽ cũng xấp xỉ tuổi đời của tôi đấy. Năm nào chúng tôi cũng có đội
tham gia”. Khi được hỏi về thành tích của đội, bác tự hào “khoe”: Đội đã rất
nhiều lần đoạt giải, năm ngoái, trong dịp lễ hội đền Trạng (tổ chức tháng 11
hằng năm) đội cũng tham gia và đoạt giải nhì. “Trò chơi vừa để rèn luyện sức
khỏe, mặt khác còn là nơi gắn kết các giá trị văn hoá cộng đồng”- ông Nguyễn
Đắc Tảo cho biết thêm.
Vậy là đâu đó bên cạnh những nét
thay đổi ngày càng mang tính hiện đại thì ở một góc của bức tranh dân gian dân
tộc đa màu ấy vẫn lưu giữ một nét đẹp cổ truyền. Hi vọng rằng ngoài những thú
vui tao nhã như ngâm thơ, đánh cờ..., trò chơi vận động này cũng góp phần làm
nên nét đẹp truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc.
12, Lễ hội Từ Lương Xâm - biểu trưng của hào khí dân tộc (xã Nam Hải – An
Hải – Hải Phòng)
Lịch sử thành văn khẳng định: Vào
cuối năm 938, sau khi diệt trừ bè lũ phản bội Kiều Công Tiễn, ở Đại La (Hà Nội
ngày nay), Ngô Quyền kéo đại quân về vùng cửa sông Bạch Đằng xây dựng thế trận
đón đánh quân xâm lược Nam Hán. Ông đã triệt để lợi dụng đặc điểm địa hình phức
tạp ở vùng cửa biển này để thiết lập trận địa thủy chiến quy mô lớn, đủ khả
năng chôn vùi toàn bộ hàng trăm thuyền chiến giặc.
Hàng vạn du khách và nhân dân địa
phương tham dự lễ hội Từ Lương Xâm.
Ông huy động quân dân đẵn gỗ, vót
nhọn, bịt sắt đóng thành một bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng. Quân thủy bộ với sự
tham gia của các lực lượng dân binh, bố trí mai phục sẵn phía bên trong bãi
cọc, vùng hạ lưu sông. Một đội thuyền nhẹ dưới sự chỉ huy của người thanh niên
Gia Viên là Ngô Tất Tố, vốn giỏi bơi lội và quen thuộc sông nước, được giao
nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lúc nước triều lên nhử giặc vượt qua bãi cọc, dấn
thân vào cạm bẫy của ta. Và điều diệu kỳ đã đến, đó là trận đánh diễn ra đúng
như diệu kế của Ngô Quyền.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938
nhanh gọn, bất ngờ đến mức vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới
mà không kịp trở tay đối phó. Chiến thắng Bạch Đằng gấp lại trang sử hào hùng
của dân tộc ta trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, đấu
tranh giành lại độc lập dân tộc.
Với truyền thống “uống nước nhớ
nguồn” và sự gắn kết máu thịt Nhà - Làng - Nước nên rất tự nhiên Ngô Quyền trở
thành thành hoàng, thần chủ của vùng đất cửa sông Bạch Đằng. Ở vùng đất này,
mặc dù nhiều làng xã cũ không còn, nhiều làng mới xuất hiện, dân cư đã trải qua
nhiều lần thay đổi, xáo trộn nhưng hầu như không có làng nào, xã nào, phố nào
không thờ Ngô Quyền.
Hình ảnh Ngô Quyền đã trở thành
gần gũi, thân thuộc với mỗi xóm thôn, làng xã, phố phường và người dân vùng đất
ông lập chiến công xưa. Ở vùng đất này, mỗi làng mới được lập ra là lại thêm
một làng thờ Ngô Quyền. Nhân dân nhiều làng xã vẫn còn giữ được đạo sắc của vua
Tự Đức phong cho 17 xã thờ Ngô Vương vào năm 1880.
Nội dung bản “Tiền Ngô Vương
thiên tử ngọc phả lục” hiện lưu tại Từ Lương Xâm cho biết: Khi kéo quân về cửa
biển Bạch Đằng bố trí thế trận, Ngô Quyền sớm nhận ra vị trí chiến lược quan
trọng của làng Dầm - tức làng Lương Xâm (tên cũ là Lãng Thâm) bây giờ.
Tại đây, ông đặt một đồn quân lớn
là đại bản doanh chỉ huy tiền phương (còn đồn chỉ huy sở được đặt tại làng Cấm
(tên chữ là Gia Viên) - khu vực trụ sở UBND TP hiện nay), huy động nhân dân đắp
thành vành kiệu, dấu vết nay vẫn còn.
Trong trường tồn, có không ít
giai đoạn, thời kỳ lịch sử, lễ hội Từ Lương Xâm (tổ chức từ ngày 16 đến 18
tháng Giêng) đã trở thành ý thức tình cảm cao nhất khi tâm linh người Hải Phòng
hướng về tổ tiên, nguồn cội của mình. Lễ hội Từ Lương Xâm đã trở thành lời nhắc
nhở, tiếng thúc giục hàng triệu con tim, khối óc từ già, trẻ, gái, trai tìm về
ngưỡng vọng, nhất là mỗi khi nền độc lập dân tộc bị đe dọa, đất nước lâm nguy
trước giặc ngoại xâm, trời làm hạn hán, gặp bão dông biển động, nghề nông - ngư
thất bát.
Khác với lễ hội của các làng xã
khác, lễ hội Từ Lương Xâm được tiến hành với sự tham gia của hầu hết các làng xã
trong vùng.
Xưa kia, sau khi đã tiến hành
nghi thức quốc lễ tại từ Lương Xâm thì đến lượt các tổng, các làng xã xung
quanh tổ chức tế lễ Ngô Vương; về cấp độ, việc tế lễ Ngô Quyền do 3 cấp tiến
hành: của nhà nước (thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần) sau này do hàng huyện
đảm nhiệm, của hàng tổng và của dân làng sở tại.
Trong lễ hội từ Lương Xâm, cuộc
hành lễ của hàng chục làng xã rước kiệu từ đình làng mình tới chầu đã tạo nên
sự xúc động tâm linh hướng về cội nguồn mạnh mẽ. Tất cả các kiệu đều đặt ở khu
đất rộng trước cửa Linh từ Lương Xâm để chấm giải. Kiệu nào nhất thì lần sau
được vinh dự thay mặt cả đoàn kiệu đứng dâng lễ Thánh Vương trước long sàng.
Nghi thức tế đám Ngô Vương ở từ
Lương Xâm khá đặc biệt: lễ phẩm phải có một bò, một lợn, một dê mổ tế sống (cỗ
thái lao), tế xong đem số thịt đó làm cỗ ăn tại đền và chia cho dân đinh; vào
những năm “phong đăng hòa cốc” ở từ Lương Xâm còn có lệ hợp tế hàng huyện, hợp
tế hàng tổng.
Theo dòng trôi chảy của lịch sử,
tín ngưỡng dân gian ở vùng cửa sông Bạch Đằng đủ độ dẻo dai để thích ứng với
mọi hoàn cảnh xã hội khác nhau. Vậy nên, trong đời sống tâm linh của nhân dân
vùng này đã hình thành tục thờ và lệ rước “Tứ linh từ” (bốn ngôi đền thiêng)
gồm: từ Lương Xâm thờ Ngô Quyền, phủ Thượng Đoạn thờ Mẫu Liễu Hạnh, đền Phú Xá
thờ Trần Hưng Đạo, từ Nghĩa Xá thờ Nam Hải Phạm Tử Nghi.
Theo cổ lệ, vào những năm mùa
màng bội thu, đất nước có tin vui, có sự kiện lớn, hoặc những năm trời làm hạn
hán, gây bão tố lớn, dịch bệnh lan tràn thì phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương sức
cho huyện An Dương tổ chức hội lễ Tứ linh từ để cảm ơn trời đất, các vị thánh
linh đã ra tay phù giúp, hay cầu xin tha lực của các vị thánh linh chung tay
cứu vớt, giúp dân, giúp nước tai qua nạn khỏi. Tham gia tổ chức hội rước Tứ
linh từ là nhân dân 7 tổng: An Dương, Lương Xâm Trung Hành, Trực Cát, Đông Khê,
Hạ Đoạn, Gia Viên.
Lễ hội Từ Lương Xâm được diễn ra
trong các ngày 14, 15 và 16 tháng Giêng hàng năm tại thôn Sâm Bồ, xã Nam Hải,
huyện An Hải, TP Hải Phòng (nay là phường Nam Hải, quận Hải An, TP Hải Phòng),
theo tương truyền, đức Ngô Vương quyền mất ngày 16 tháng Giêng...
0 nhận xét:
Đăng nhận xét